top of page

Chồng không được yêu cầu ly hôn dù vợ có thai với người khác

Ảnh của tác giả: Barrisco Hãng luậtBarrisco Hãng luật

ly hôn

Hội đồng thẩm phán TAND tối cao vừa ban hành Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP, hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình. Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP có hiệu lực từ ngày 01/7/2024.

Cụ thể, căn cứ khoản 4, Điều 2 Nghị quyết có nội dung: “Trường hợp vợ đang có thai, sinh con thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn, không phân biệt vợ có thai, sinh con với ai”.

Theo đó tại khoản 3, điều 51 Luật Hôn nhân gia đình năm 201: "Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi". Khi xảy ra sự kiện trên, người chồng nộp đơn ly hôn đến Tòa án thì Tòa án sẽ trả lại đơn, không thụ lý giải quyết.

"Đang có thai" là khoảng thời gian vợ mang trong mình bào thai và được cơ sở y tế có thẩm quyền xác định cho đến thời điểm sinh con hoặc thời điểm đình chỉ thai nghén.

"Sinh con" là một trong các trường hợp sau: vợ đã sinh con nhưng không nuôi con trong khoảng thời gian từ khi sinh con đến khi con dưới 12 tháng tuổi; vợ đã sinh con nhưng con chết trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tuổi kể từ khi sinh con; hoặc vợ có thai từ 22 tuần tuổi trở lên mà phải đình chỉ thai nghén.

Nghị quyết nêu rõ, chồng không có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tính từ ngày vợ sinh con.

Trường hợp vợ đang có thai, sinh con thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt vợ có thai, sinh con với ai.

Trường hợp vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt con đẻ, con nuôi.

Quy định chồng không được quyền ly hôn khi vợ đang mang thai hoặc sinh con dưới 12 tháng tuổi không phải là mới, đã được quy định từ lâu. Trong số này, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 từng quy định tại điều 85 rằng, "trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn".

Đến năm 2014, Luật Hôn nhân và gia đình mới được ban hành, thay thế Luật cũ năm 2000. Tại điều 51, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 tiếp tục quy định "chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi".

Có thể thấy, Luật Hôn nhân và gia đình qua các thời kì đã từng quy định việc chồng không được yêu cầu ly hôn khi vợ đang mang thai, đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.Tuy nhiên trong quá trình thực hiện pháp luật, vẫn xảy ra những trường hợp mà các Tòa đang không đồng nhất về quan điểm. Vì thế Nghị Quyết 01/2024/NQ-HĐTP được ban hành để hướng dẫn chi tiết về điều luật đó.

Quy định này nhằm bảo vệ sức khỏe tâm lý và thể chất của người vợ cũng như đứa con chưa chào đời. Thai kỳ là giai đoạn nhạy cảm đối với phụ nữ, đòi hỏi sự ổn định và hỗ trợ từ người chồng để bảo đảm thai nhi phát triển tốt nhất. Nếu chồng đơn phương ly hôn trong giai đoạn này, nó có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng đến sức khỏe của cả mẹ và con.

Thực tế cho thấy rằng không phải người phụ nữ nào cũng có điều kiện kinh tế để tự xoay xở khi mang thai và nuôi con nhỏ. Thậm chí, nếu ly hôn, nhiều người phụ nữ có nguy cơ tay trắng, không nhà cửa, không tài sản… Trong hoàn cảnh rất khó khăn như vậy dễ khiến họ bị dồn vào bước đường cùng.

Do vậy, việc không cho phép người chồng có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi nhằm bảo vệ tối đa bà mẹ và trẻ em.

Quy định về việc chồng không được ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con mà không phân biệt vợ có thai, sinh con với ai tại Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP không phải là quy định mới và việc có hiệu lực từ ngày 01/7/2024 chỉ là ngày có hiệu lực của văn bản, chứ không phải là từ ngày 01/7/2024 thì chồng không được ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con mà không phân biệt vợ có thai, sinh con với ai còn trước đó thì được.

 

 

 

223 lượt xem0 bình luận

Bài đăng gần đây

Xem tất cả

Mẫu đơn ly hôn

Comentarios


​Bài viết liên quan

Hãy cho tôi biết về vấn đề của bạn và để lại thông tin, chúng tôi sẽ tư vấn cho bạn

zalo

Giải đáp

​Văn phòng Hà Nội​​​

Địa chỉ: LK 88 Ngõ 6 phố Nguyễn Văn Lộc, Phường Mộ Lao, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội

SĐT: 0822689333 (LS. Hoàng)

Văn phòng tại TP. Hồ Chí Minh

Địa chỉ: Phòng số 201, số 171 đường Nguyễn Thị Thập, phường Tân Phú, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh

SĐT: 0857682666 (LS. Phương Linh)

Hãng Luật Barrisco Việt Nam

Văn phòng Hà Nội

LK 88 Ngõ 6 P.Nguyễn Văn Lộc, Ph.Mộ Lao, Q.Hà Đông TP.Hà Nội

Văn phòng tại TP. Hồ Chí Minh

Phòng số 201, số 171 đường Nguyễn Thị Thập, phường Tân Phú, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh

bottom of page